Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Viện Chăn nuôi - 50 năm xây dựng và phát triển

.
Hoivcn: Vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Chăn nuôi (1952-2002), tập sách "Viện Chăn nuôi - 50 năm xây dựng và phát triển" được Nhà xuất bản Nông nghiệp in và phát hành. Đây là tư liệu quý, một số lần đầu được công bố, do tập thể các nhà khoa học và quản lý của Viện do PGS-TS Nguyễn Đăng Vang (khi đó là Viện trưởng) biên soạn. Trân trọng giới thiệu toàn bộ cuốn sách cùng hội viên và bạn đọc.

Ảnh: Viện Chăn nuôi năm 1969


VIỆN CHĂN NUÔI - 50 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN


BAN BIÊN TẬP


1.      PGS. TS. Nguyễn Đăng Vang                  Trưởng Ban
2.      PGS. TS. Trần Thế Thông                        Phó Trưởng Ban
3.      GS. TS. Nguyễn Văn Thưởng                  Phó Trưởng Ban
4.      PGS. TS. Nguyễn Thiện                          Phó Trưởng Ban
5.      PGS. TS. Nguyễn Tấn Anh                      Uỷ viên
6.      PGS. TS. Phạm Hữu Doanh                    Uỷ viên
7.      KS. Nguyễn Gia Duy                               Uỷ viên
8.      PGS. TS. Hoàng Kim Giao                     Uỷ viên
9.      KS. Nguyễn Văn Hải                               Uỷ viên
10. KS. Lưu Kỷ                                              Uỷ viên
11. GS. TS. Lê Văn Liễn                                Uỷ viên
12. PGS. TS. Đinh Hồng Luận                      Uỷ viên
13. GS. TS. Lê Viết Ly                                  Uỷ viên
14. KS. Nguyễn Thị Hoài Tao                       Uỷ viên
15. TS. Trần Trọng Thêm                               Uỷ viên
16. GS. TS. Nguyễn Văn Thiện                     Uỷ viên
17. PGS. TS. Bùi Quang Tiến                        Uỷ viên
18. PGS. TS. Hoàng Văn Tiệu                       Uỷ viên
19. TS. Võ Văn Sự                                          Uỷ viên
20. TS. Nguyễn Quang Sức                           Thư ký
21. TS. Nguyễn Hữu Tào                               Thư ký

Lời nói đầu

Trong khoảng thời gian dài hơn 4000 năm lịch sử, đất nước ta đã được hình thành và đổi thay nhiều mặt, trong đó nghề chăn nuôi đã được cha ông ta chú ý ngay từ thủa ban đầu dựng nước. Cách mạng Tháng 8 thành công, sau khi Bộ Canh nông được thành lập, 6 bộ phận chuyên môn thuộc Nha Mục súc–Ngư nghiệp cũng đã được hình thành, trong đó có Viện “Khảo cứu” gồm các Phòng Khảo cứu những vấn đề chuyên môn và khoa học thuộc lĩnh vực  thú y và súc sản.

 
Đến năm 1951, xuất phát từ chủ trương của  Chính phủ tách công tác nghiên cứu ra khỏi hệ thống quản lý sản xuất, Bộ Canh nông đã có Nghị định số 1-CN-QT-NĐ ngày 9/2/1952 về việc thành lập Viện Chăn Nuôi và Viện Trồng trọt. 
Do yêu cầu phát triển nông nghiệp theo từng giai đoạn của đất nước, Viện Chăn Nuôi đã nhiều lần thay đổi tổ chức và đổi tên: Phòng Chăn nuôi - Thú y thuộc Viện khảo cứu Nông Lâm (1955), Viện Khảo cứu Chăn nuôi (1957), Khoa Chăn nuôi - Thú y thuộc Học viện Nông Lâm (1959), Ban Chăn nuôi - Thú y thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp (1963), Viện Chăn Nuôi (1969). 
Để đảm bảo tính lịch sử kế thừa của các giai đoạn đó với những thế hệ cán bộ nghiên cứu khoa học của ngành chăn nuôi, tại văn bản số 492 BNN /TCCB ngày 26 tháng 02 năm 2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã cho phép được lấy ngày 9/02/1952 là ngày truyền thống kỷ niệm thành lập Viện Chăn nuôi (Thay cho ngày 7/1/1969 trước đây, khi Ban Chăn nuôi tách ra thành lập Viện Chăn nuôi).
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, Viện Chăn nuôi biên soạn, giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách: Viện Chăn nuôi - 50 năm xây dựng và phát triển.
Với cuốn sách nhỏ này, không thể đề cập một cách đầy đủ lịch sử phát triển của Viện Chăn nuôi với những cống hiến đóng góp xây dựng của tập thể cán bộ, công nhân viên trong suốt nửa thế kỷ qua. Chỉ với mong muốn phác hoạ lên bức tranh chung quá trình tổ chức, xây dựng và phát triển của Viện; giới thiệu một số thành tựu nghiên cứu tiêu biểu được áp dụng vào sản xuất và nghiên cứu khoa học - công nghệ trong những năm gần đây; đồng thời ghi lại những điều tâm huyết của một số nhà khoa học và cán bộ quản lý trong quá trình tham gia xây dựng Viện.
Mặc dù các tác giả và Ban biên tập đã hết sức cố gắng sưu tầm tư liệu và tìm hiểu người thực, việc thực, song chắc chắn vẫn không tránh khỏi những sai sót. Rất mong bạn đọc thông cảm và tiếp tục đóng góp ý kiến để cho cuốn sách này ngày càng được hoàn thiện hơn. /.
Ban Biªn tËp



VIỆN CHĂN NUÔI - 50 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
VÌ SỰ NGHIỆPNÔNG NGHIỆP VÀ PHÁ TRIỂN NÔNG THÔN
   PGS. TS. Nguyễn Đăng Vang
Viện trưởng Viện Chăn nuôI

Cách mạng Tháng 8 thành công, Bộ Canh nông nước ta được thành lập, Nha Mục súc–Ngư nghiệp  trực thuộc Bộ được hình thành với 6 bộ phận chuyên môn, trong đó có “Viện Khảo cứu” những vấn đề chuyên môn và khoa học thuộc về thú y và súc sản. 

Đến năm 1951, xuất phát từ chủ trương của Chính phủ tách công tác nghiên cứu ra khỏi hệ thống quản lý sản xuất, Bộ Canh nông đã chấn chỉnh tổ chức, thành lập Viện Chăn Nuôi và Viện Trồng trọt là 2 cơ quan nghiên cứu về nông nghiệp tại Nghị định số 1–CN -QT-NĐ ngày 9-2-1952. 

Trong mỗi giai đoạn phát triển nông nghiệp của đất nước, Viện Chăn Nuôi đã nhiều lần thay đổi tổ chức và đổi tên như: Viện Chăn nuôi (1952), Phòng Chăn nuôi -Thú y thuộc Viện khảo cứu Nông Lâm (1955), Viện khảo cứu Chăn nuôi (1957), Khoa Chăn nuôi -Thú y thuộc Học viện Nông Lâm (1959), Ban Chăn nuôi - Thú y thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp (1963), Ban Chăn nuôi thuộc Viện Khoa học Nông nghiệp (1966), Viện Chăn Nuôi (1969). Đến nay, Viện đã trải qua nửa thế kỷ xây dựng và phát triển góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt nam.

I. Những thành tựu nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Chăn nuôi

Trong thời kỳ trước năm 1980, Viện Chăn nuôi là cơ quan nghiên cứu khoa học và kỹ thuật chăn nuôi với cơ chế quản lý tài chính theo kế hoạch “Chi đủ, thu đủ”. Hướng nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các đề tài ghi trong kế hoạch hàng năm và 5 năm về tăng năng suất chăn nuôi lợn, gia cầm và trâu, bò, nhằm góp phần đưa ngành chăn nuôi thành một ngành sản xuất chính, có năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế cao. 

Từ những năm ’80 trở lại đây, Viện đã hoạt động nghiên cứu theo các Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước như:

Chương trình 02- 03: "Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp khoa học và kỹ thuật để phát triển chăn nuôi lợn theo vùng kinh tế khác nhau"; Chương trình 02-08: "Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp khoa học và kỹ thuật nhằm phát triển chăn nuôi trâu, bò tăng sản lượng thịt, sữa..."; Chương trình 02-09: "Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp có căn cứ khoa học để tăng sản lượng thức ăn và sử dụng hợp lý nguồn thức ăn giàu protein ở các vùng khác nhau trong nước" giai đoạn 1981-1985. 

Chương trình 02.B: "Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp tổng hợp nhằm phát triển và nâng cao năng suất chăn nuôi" giai đoạn 1986 - 1990. 

Chương trình KN -02: "Nghiên cứu xác định và đưa vào sản xuất những biện pháp khoa học và công nghệ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi" giai đoạn 1991- 1995. Trong Chương trình này, Viện đã thực hiện 22 đề tài nhánh về các giống vật nuôi và biện pháp kỹ thuật liên quan.

Chương trình KHCN -08 “Phát triển nông nghiệp toàn diện, đa dạng và từng bước hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn” giai đoạn 1996 – 2000. Trong đó, Viện chủ trì các đề tài: KHCN-08-05 “Nghiên cứu phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt”; KHCN 08-13: “Nghiên cứu phát triển chăn nuôi gia cầm thả vườn”; phối hợp đề tài KHCN -03 “Nghiên cứu phát triển chăn nuôi lợn hướng nạc”; “Nghiên cứu dinh dưỡng và chế biến thức ăn cho động vật dạ dày đơn”. Từ năm 1990 đến nay, Viện Chăn nuôi còn thực hiện Chương trình nghiên cứu “Bảo tồn quỹ gen vật nuôi” và đã nuôi giữ một số động vật quý hiếm, nhằm lưu giữ những nguồn gen của động vật có nguy cơ diệt chủng, phát triển tính đa dạng sinh học vật nuôi ở nước ta.

Từ năm 2001 đến nay, Viện Chăn nuôi đã tham gia Chương trình Công nghệ sinh học cấp Nhà nước và đang chủ trì 2 đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật di truyền phân tử trong chọn, tạo giống vật nuôi năng suất cao” và “Nghiên cứu phát triển công nghệ phôi và thử nghiệm công nghệ cloning trong nhân tạo giống bò sữa cao sản”. 

Bên cạnh các đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, Viện còn chủ trì 9 đề tài trọng điểm  và 20 đề tài nghiên cứu thường xuyên của Bộ về bò sữa, gia cầm thả vườn, vịt thịt, trứng cao sản, sinh lý sinh sản gia súc, đồng cỏ, cây thức ăn gia súc, chọn lọc phát triển chăn nuôi trâu, phát triển chăn nuôi dê, nghiên cứu nhu cầu khoáng cho gia súc, gia cầm. Viện còn phối hợp với 22 nước trên thế giới nghiên cứu các đề tài về giống vật nuôi, cây thức ăn gia súc, hệ thống chăn nuôi, sử dụng và chế biến phụ phẩm, bảo vệ môi trường…

Trong suốt chặng đường dài lịch sử đầy khó khăn thử thách, từ hoạt động nghiên cứu theo đề tài đến chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước và cấp ngành, Viện đã đạt được những thành tựu chủ yếu về nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật như sau:

1. Giống lợn:

Kết quả nổi bật trong nghiên cứu giống lợn của Viện giai đoạn 1958-1981 là đã nghiên cứu thành công 2 công thức lai tạo giống lợn là Becshire - ỉ và Đại bạch – ỉ. Một lợn nái giống mới Đại bạch – ỉ nuôi thâm canh một năm có thể sản xuất được 1 tấn thịt hơi. Giống lợn mới này được nuôi nhiều ở vùng đồng bằng sông Hồng. Năm 1981, công trình nghiên cứu này đã được Nhà nước công nhận 2 giống lợn mới với tên gọi là: “BSI-81” và “ĐBI -81”.

Từ những cặp lai kinh tế đơn giản, giống lai Hibrid đã làm biến đổi về lượng và chất đàn lợn ở nước ta nêu trên. Đến nay, đã có trong sản xuất các cặp lợn lai kinh tế lợn ngoại với lợn nội và lợn ngoại với lợn ngoại đạt tỷ lệ thịt nạc cao, nuôi được ở mọi miền đất nước. Con lai F1 Yorshire x Móng cái nuôi thịt 8 tháng tuổi đạt 75-80 kg, tỷ lệ thịt nạc đạt 40-42%; Dùng lợn đực Landrace cho lai tiếp với cái Fl cho con lai F2, nuôi thịt 6 tháng tuổi đạt 80-90 kg, tỷ lệ thịt nạc 47-48%. Đối với lợn Móng cái 10 tháng tuổi chỉ đạt 60-65 kg, tỷ lệ nạc 33-35%, ngày nay do được chọn lọc, đã lớn nhanh hơn và đạt tỷ lệ nạc 38-39%. ở các cặp lai kinh tế lợn ngoại với lợn ngoại, lợn lai F1 (Landrace x Yorshire) và F2 giữa lợn đực Duroc hoặc Pietrain với lợn cái Fl (ngoại x ngoại), con lai nuôi thịt 5, 5 tháng tuổi đạt 100 kg, tỷ lệ thịt nạc /thân thịt xẻ 56-58%, trong khi đó, ở lợn ngoại thuần, tỷ lệ thịt nạc chỉ đạt 52-54%. Hiện nay lợn lai kinh tế được nuôi rộng rãi trong cả nước, góp phần đưa sản lượng thịt lợn từ 270 nghìn tấn năm 1976 lên 729 nghìn tấn năm 1990, 1.006 nghìn tấn năm 1995 và 1.409 nghìn tấn năm 2000, chiếm 76% tổng sản lượng lợn thịt hơi các loại (l.836 nghìn tấn). Với thành tích đóng góp cho khoa học và sản xuất nói trên, công trình "Nghiên cứu lợn lai có năng suất và chất lượng cao ở Việt nam" đã được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 2000 cho các nhà khoa học chuyên ngành chăn nuôi lợn nước ta.

2. Giống bò 

Từ chỗ chưa có bò sữa, nay đã tạo được đàn bò lai hướng sữa F11 /2, F23/4 và F37 /8 máu bò Holstein Friesian (HF) với tổng số 49.000 con nuôi ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận, trong đó có trên 20.000 bò cái vắt sữa, sản xuất được 70.000 tấn sữa với sản lượng sữa bình quân đạt 3.300- 3.600 kg sữa /cái vắt sữa /năm, trong đó sản lượng sữa đàn bò lai hạt nhân F11 /2 HF là 3.414 – 3.634 kg, F3 3/4 HF là 3.615-3.795 kg sữa /chu kỳ vắt sữa 305 ngày. Công trình "Nghiên cứu bò lai hướng sữa" đã được tặng Giải thưởng Nhà nước vào năm 2000 cho các nhà khoa học chuyên ngành chăn nuôi về đại gia súc nước ta.

3. Giống gà:

Viện đã nghiên cứu thích nghi, nhân thuần đưa vào sản xuất một số giống gà công nghiệp:  Goldline, Hi-line, Ross- 208, Cornish, Plymouth. Đã chọn lọc được những giống gà lông màu thả vườn như: Lương Phượng Hoa, Tam Hoàng 882, Jiangcun (Trung Quốc) có sản lượng trứng đạt 160- 165 quả/năm, khối lượng trứng 53-55 gam/quả, gà nuôi thịt lúc 77 ngày tuổi đạt 1,5 - 1,9 kg/con; giống gà Kabir (Israel) sản lượng trứng 150-170 quả/năm, khối lượng trứng 55-56 gam, gà nuôi thịt lúc 63 ngày tuổi đạt 2,10-2,20 kg; giống gà Sasso (Pháp) sản lượng trứng 185-195 quả/năm, nuôi đến 90-100 ngày tuổi đạt 2,1-2,3 kg/con. 

Đặc biệt của công trình nghiên cứu gia cầm là nhóm giống gà Rhoderi đã được Nhà nước công nhận, cho phép đưa vào sản xuất (năm 1985). Giống gà này đã được lai với các giống gà khác và một số công thức lai đã được công nhận là những TBKT, được áp dụng trong sản xuất như: Leghorn x Rhode-Ri (năm 1993); Godline x Rhode-Ri (năm 1994);  Tam hoàng 882 x Rhode -Ri (Năm 1997); Tam hoàng -Jiangcun x Rhode-Ri (Năm 1999). Con lai nuôi thịt lúc 9-10 tuần tuổi đạt 2,3-2, 4 kg với mức tiêu tốn 2,4-2, 5 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng.

4. Giống vịt

Viện đã nghiên cứu chọn lọc và nhân thuần giống vịt cỏ, đưa sản lượng trứng từ 180 quả lên 220 quả/năm. Đặc biệt, đã nhập nuôi thích nghi và nhân thuần giống vịt chuyên trứng Khaki campbell đạt 275-280 quả trứng /năm và giống vịt chuyên trứng CV layer - 2000 đạt 270-280 quả trứng /năm; vịt siêu thịt CV. Super M dòng siêu nặng, sản lượng trứng đạt 170-195 quả, khối lượng vịt lúc trưởng thành 3,2-3,6 kg, dòng nhẹ cân sản lượng trứng đạt 180-220 quả/năm và khối lượng vịt lúc trưởng thành đạt 2,7-3, 1 kg. Đã lai các dòng vịt này tạo vịt thương phẩm nuôi thịt lúc 8 tuần tuổi đạt 3,0-3,4 kg/con. Hệ thống giống vịt VIGOVA mỗi năm bình quân sản xuất được 12 triệu con, chiếm 60% số vịt ở đồng bằng sông Cửu Long. Đã nghiên cứu sử dụng các giống vịt này vào việc xây dựng mô hình nuôi vịt kết hợp thả cá, trồng lúa ở  đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ, được nông dân áp dụng rộng rãi, có hiệu quả kinh tế cao. Phương thức nuôi vịt trên khô, không cần nước bơi lội, không theo mùa vụ được áp dụng có hiệu quả ở nhiều vùng. Với kết quả đó, công trình "Nghiên cứu vịt siêu thịt CV Super M đã được tặng Giải thưởng Nhà nước" vào năm 2000. 

5. Giống ngan

Đã nghiên cứu và được công nhận là TBKT dòng ngan Pháp R31, R51 (1997), dòng ngan siêu nặng (2001) có năng suất trứng 190-210 quả/năm, nuôi thịt lúc 12 tuần tuổi con trống đạt 4,5-5,5 kg, con mái đạt 2,5-3 kg. Hiện nay đã tạo ra 11 dòng ngan Pháp năng suất, chất lượng cao, trong đó có 4 dòng ngan ông, bà R51 và 4 dòng ngan ông, bà R71.

Đã nghiên cứu nhồi ngan và ngan lai vịt lấy gan. Bước đầu cho thấy đây là sản phẩm thực phẩm cao cấp được ưa chuộng và cho hiệu quả kinh tế.

6. Giống ngỗng

Viện đã nghiên cứu thích nghi giống ngỗng Rheiland nhập từ Hungari và được Nhà nước công nhận giống năm 1986, là TBKT được áp dụng vào sản xuất ở nước ta.

7. Giống Trâu

Viện đã nhập, nghiên cứu nuôi thích nghi giống trâu Murrah ở Việt nam; đã nghiên cứu chọn lọc nâng cao khả năng sản xuất thịt và cày kéo của trâu nội; nghiên cứu vỗ béo trâu 18-24 tháng tuổi; sử dụng trâu đực Murrah lai với trâu cái Việt nam  tạo con lai F1 tăng khả năng cho thịt và sức cày kéo ở miền núi; nghiên cứu xây dựng mô hình tạo nguồn  thức ăn cho trâu trong hộ nông dân miền núi. Nhiều năm, Viện tổ chức thi, bình tuyển trâu nội ở tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên.

8. Giống Ngựa:

Đã nghiên cứu lai tạo ngựa lai F11 /4 Khabardin và 3/4 ngựa Việt Nam  nâng cao được khối lượng và tầm vóc, phục vụ thồ, kéo, cưỡi cho đồng bào vùng sâu vùng xa.

9. Giống dê: 

Đã chọn lọc, nhân thuần giống dê Bách Thảo - Ninh Thuận để lấy thịt và sữa. Giống dê Bách Thảo có tầm vóc lớn, ở 12 tháng tuổi đạt 34-35 kg, có sản lượng sữa 180 kg / chu kỳ 150 ngày vắt sữa, tỷ lệ mỡ sữa là 5,44%. Đã dùng con đực lai cải tạo giống dê cỏ địa phương, đưa khối lượng của dê lai F1 lúc l2 tháng tuổi đạt 24-25 kg/con, trong khi dê cỏ chỉ dạt 12-14 kg. Công trình nghiên cứu xác định đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của dê sữa Bách thảo đã được nhận Giải thưởng Bông lúa vàng Việt nam năm 1997.  

Ngoài ra, Viện đã nghiên cứu thích nghi 3 giống dê sữa nhập từ ấn độ (Barbari, Jumnapari và Beetal) vào năm 1994. Đến nay, cả 3 giống dê này được đưa vào sản suất lấy sữa với năng suất 0,9-3 lít /con/ngày với chu kỳ vắt sữa là 150-180 ngày. 

10. Giống thỏ:

            Năm 2000, Viện đã nhập 3 giống thỏ năng suất cao (New-zealand, Panon và Kalifornia) từ Hungari để làm tươi máu đàn thỏ giống được nhập từ năm 1978 và nghiên cứu phát triển chăn nuôi thỏ ở nước ta. Với kết quả lai tươi máu, đã nâng khối lượng trưởng thành của giống thỏ New -zealand từ 3-3, 5 kg lên 5-5,5 kg, tăng khả năng sinh sản từ 5, 5 lứa lên 6 lứa/năm và từ 5, 6 con lên 6,5 con/lứa.

7. Động vật quý hiếm và Bảo tồn nguồn gen vật nuôi:

Từ năm 1990 đến nay, Viện Chăn nuôi thực hiện Chương trình nghiên cứu “Bảo tồn quỹ gen vật nuôi” và đã nuôi giữ một số động vật quý hiếm, nhằm lưu giữ những nguồn gen của động vật có nguy cơ diệt chủng như lợn ỉ, gà Hồ, cừu Phan Rang, dê Bách Thảo, thỏ Xám và Đen Việt nam, vịt Bầu quỳ, vịt Bầu Bến,  gà H’mông… 

Năm 1998, Viện nghiên cứu thích nghi giống đà điểu nhập từ úc, đến năm thứ 3 đạt 40 quả trứng /mái /năm và năm 2001 được đưa vào sản xuất thử.

Đến nay, Viện đã áp dụng phương pháp di truyền phân tử để đánh giá bản chất của 51 giống vật nuôi quý của Việt Nam và đã bảo tồn được 2.181 mẫu AND của 39 giống.
 
8. Dinh dưỡng và thức ăn vật nuôi

Thức ăn gia súc là cơ sở quyết định cho sự phát triển của các đối tượng vật nuôi. Từ quan điểm đó, Viện đã tập trung chỉ đạo nhiều công trình nghiên cứu có kết quả trở thành tiến bộ kỹ thuật, thành chủ trương phát triển của ngành. 

Từ công trình nghiên cứu  phân tích xác định thành phần dinh dưỡng các nguồn thức ăn, năm 2001 Viện đã tái bản lần thứ 4 quyển sách “Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc Việt nam”. Tài liệu này đã và đang được sử dụng cho nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng trong sản xuất. 

            Những công trình nghiên cứu về thức ăn hỗn hợp, xây dựng tiêu chuẩn, khẩu phần ăn và chế độ dinh dưỡng cho các loại gia súc, gia cầm thuộc các lứa tuổi và hướng sản xuất khác nhau đã góp phần giảm mức tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng từ 3,8-4, 0kg xuống còn 2,9-3, 1kg đối với lợn và từ 2,5-3, 0 kg xuống còn 2,0-2, 2 kg đối với gia cầm. 

Chương trình nghiên cứu về công nghệ chế biến thức ăn vật nuôi từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp, hải sản được áp dụng có hiệu quả trong sản xuất và chống ô nhiễm môi trường. 

9. Đồng cỏ và cây thức ăn chăn nuôi

Đã nghiên cứu trên 130 giống cỏ họ đậu và hoà thảo có năng suất cao và hoàn thiện quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch như: vỏ voi Kingrass năng suất 200-300 tấn /ha, cỏ Pangola Pa -32, cỏ Ghi nê, cỏ Ruzi năng suất 50-60 tấn /ha. Đã nhập nghiên cứu và phát triển trong sản xuất  một số cây họ đậu như keo dậu, Trichanteara gigantea, Flemingia macrophilla vv... cắt cho ăn bổ sung tại chuồng hay  phơi khô và ủ tươi dự trữ cho mùa đông; đồng thời có tác dụng cải tạo đất, bảo vệ môi trường.

10. Sinh sản và Thụ tinh nhân tạo

Viện đã hoàn thiện kỹ thuật lấy tinh, đánh giá chất lượng, pha loãng bảo tồn và dẫn tinh dịch lợn, trâu, bò. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học và pha loãng bảo tồn tinh dịch lợn ở Việt nam. Viện đã sản xuất được “Môi trường hỗn hợp sẵn”, bảo quản tinh dịch lợn được từ 1 ngày nâng dần lê 2, 3, 5 ngày, được áp dụng vào sản xuất ở các Trạm TTNT các tỉnh. Hiện nay, riêng Viện Chăn nuôi đã pha loãng tinh dịch lợn bảo quản 2-3 ngày, có giá thành hạ, cung cấp 35 ngàn lít môi trường, đáp ứng 30% nhu cầu thị trường toàn quốc. Đặc biệt, Viện đã nghiên cứu TTNT trên gà, ngan, ngỗng, dê. Trong đó, đề tài nghiên cứu kỹ thuật lấy tinh, đánh giá chất lượng, pha loãng bảo tồn và dẫn tinh dịch trên gà đã được thưởng Huy chương vàng tại Hội chợ Giảng Võ năm 1989. Đề tài nghiên cứu  lấy tinh ngan đực phối với vịt mái tạo ra con lai Mullard là một đột phá trong kỹ thuật, đóng góp mới cho khoa học và sản xuất. 

11. Công nghệ sinh học trong chăn nuôi

Bằng công nghệ cấy truyền phôi tươi và phôi đông lạnh, đến nay đã có hàng trăm bò được tạo ra. Những bò này sinh trưởng phát triển cao hơn 30-40%, cho năng suất sữa cao hơn 25-30% so với những bò khác cùng giống. Có nhiều con đang vắt sữa lứa 1 và 2 sản lượng sữa 4500-5500 kg/chu kỳ. Đã thành công trong việc xác định giới tính của phôi, cắt một phôi thành 2 tạo ra 2 bê giống nhau.

Với công nghệ gen động vật, các nhà nghiên cứu chăn nuôi đã làm chủ được kỹ thuật nhân gen PCR trên các thiết bị đã có  ở Việt Nam. Công việc này đã được triển khai và bước đầu có kết quả với gen Halothane trên lợn, gen Kappacasein và b-lactoglobulin trên bò. Một số gen hormon sinh trưởng và sinh sản của gà và lợn góp phần chọn lọc cải tiến di truyền chất lượng giống lợn và bò sữa của Việt Nam.

ứng dụng công nghệ lên men để bảo quản phụ phẩm nông nghiệp và thủy sản làm thức ăn cho chăn nuôi, sử lý chất thải chăn nuôi làm giảm ô nhiễm môi trường và tạo nguồn khí đốt Biogas cũng là thành tựu của việc ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi  ở Việt Nam hiện nay.

12. Thú y - Bảo vệ sức khoẻ vật nuôi:

Công tác thú y đã góp phần quan trọng vào việc nuôi thích nghi những đàn giống nhập nội ở các cơ sở. Nhiều đề tài nghiên cứu pha chế thuốc thú y, xây dựng quy trình phòng trị bệnh có hiệu quả cho từng giống vật nuôi được công nhận là TBKT; đã góp phần tích cực vào công tác nghiên cứu khoa học và thực nghiệm trong quá trình tạo ra và phát triển những đàn giống gia súc, gia cầm và bảo đảm an toàn dịch bệnh trong các cơ sở chăn nuôi của Viện.   

13. Công nghệ bảo quản chế biến sản phẩm chăn nuôi

Viện đã nghiên cứu thành công một số đề tài bảo quản chế biến sản phẩm chăn nuôi như: chế biến thịt gia cầm, thịt bò được một số Công ty áp dụng sản xuất; các sản phẩm như "Thịt gà chất lượng cao", "Thịt gà xông khói", "Thịt vịt, ngan hầm măng", "Thịt gà Ác"... bắt đầu được tiêu thụ tại các siêu thị Hà nội.  Những năm gần đây, Viện đã nghiên cứu thành công quy trình công nghệ sản xuất, chế biến gan béo từ vịt lai ngan (Mulards) và từ ngan thuần. Sản phẩm gan béo có giá trị kinh tế cao, mở ra hướng mới về sản xuất, chế biến gan béo xuất khẩu.  

14. Công tác thông tin 

            Để phục vụ cho công tác nghiên cứu và tổng hợp, lưu trữ các kết quả hoạt động khoa học - công nghệ chăn nuôi, ngay từ năm 1969, Viện đã xuất bản “Tạp chí KHKT Chăn nuôi” và các “Tuyển tập các công trình nghiên cứu KHKT chăn nuôi”; đã xây dựng Phòng Thư viện có nhiều loại hình tài liệu trong nước và nước ngoài; xuất bản tờ “Tin nhanh”. 

Đặc biệt, Viện Chăn nuôi đã tiến hành ứng dụng công nghệ tin học vào nghiên cứu và quản lý. Năm 1990, Viện có chiếc máy vi tính đầu tiên. Năm 1992, Viện bắt đầu tổ chức lớp học ứng dụng các phần mềm phân tích và quản lý số liệu. Đến nay, Viện đã áp dụng phần mềm quản lý tài chính, nhân sự, giống lợn và xây dựng phần mềm quản lý vịt (DUCKMAN), tham gia xây dựng phần mềm quản lý bò sữa (VDM). Năm 2000, đã khai trương trang WEB – Viện Chăn nuôi, là một trong số trang WEB đầu tiên của các Viện, Trường thuộc lĩnh vực nông nghiệp.

15. Tham gia công tác quản lý giống vật nuôi và khuyến nông  
   
Ngoài công tác nghiên cứu và quan hệ mật thiết với các địa phương và cơ quan hữu quan trong đào tạo, huấn luyện và chuyển giao công nghệ chăn nuôi. Những năm của thập kỷ 90 (Thế kỷ 20), Viện Chăn nuôi được giao nhiều dự án nghiên cứu triển khai, quản lý hầu hết các đàn giống gốc gia súc, gia cầm và đang làm chủ đầu tư của 6 dự án giống vật nuôi của Bộ Nông nghiệp và PTNT nhằm nâng cao chất lượng và cung cấp con giống cho sản xuất như các giống: Lợn, Bò sữa, Gà thả vườn, Vịt-Ngan, Dê sữa và Trâu. Chính từ những nhiệm vụ này, Viện có điều kiện gắn nghiên cứu, đào tạo với sản xuất và từ đó công tác nghiên cứu đã từng bước đáp ứng yêu cầu của sản xuất. 

II. Xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất kỹ thuật

Cùng với đà phát triển và mở rộng công tác nghiên cứu khoa học, hoạt động hợp tác quốc tế và phổ biến chuyển giao công nghệ chăn nuôi vào sản xuất, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý khoa học ngày một trưởng thành, đảm đương được những nhiệm vụ được giao, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ. 

Đến nay, Viện đã có hệ thống tổ chức tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các Bộ môn nghiên cứu, các Phòng thí nghiệm, phân tích, các Phòng ứng dụng công nghệ tin học phục vụ nghiên cứu và quản lý giống vật nuôi với những trang thiết bị và nghị khí thí nghiệm hiện đại. Viện có 11 Trung tâm, Trạm nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi ở cả 3 miền đất nước, nghiên cứu các loại gia súc, gia cầm hiện có trong nước và những giống vật nuôi cao sản nhập từ nước ngoài. Tất cả các đơn vị đó đều có cơ sở hạ tầng tương đối khang trang, có điều kiện cho cán bộ khoa học làm việc và giao lưu với các nước bè bạn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ chăn nuôi trong thời kỳ đổi mới của đất nước.

Từ năm 1994, Viện Chăn nuôi đã được Nhà nước giao cho công tác đào tạo tiến sĩ chuyên ngành chăn nuôi. Đến nay, Phòng Đào tạo sau đại học của Viện đã tuyển được 50 nghiên cứu sinh, trong đó có 14 người đã hoàn thành luận án và được Nhà nước cấp bằng Tiến sĩ nông nghiệp.

Từ số cán bộ khoa học đứng đầu trong lĩnh vực chăn nuôi trước đây có thể đếm được trên đầu ngón tay, đến nay, Viện Chăn nuôi có hơn 400 cán bộ có trình độ đại học, trong đó có 114 thạc sỹ và tiến sỹ, 12 giáo sư và phó giáo sư đã được phong trong 10 năm gần đây. Ngoài ra, còn có hàng trăm nhân viên kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ khác làm việc trong toàn khối Viện.  Nhiều cán bộ trên đại học được đào tạo từ chiếc nôi Viện Chăn nuôi đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong quản lý và nghiên cứu ở nhiều cơ quan khác. 

V. Hoạt động hợp tác quốc tế

Trước năm 1990, hợp tác nghiên cứu chủ yếu là với Liên Xô (cũ), các nước Đông Âu và một số nước như ấn độ, Pháp... về chương trình viện trợ kỹ thuật về nhập giống gia súc, thiết bị và chuyên gia như: Hợp tác nghiên cứu về dinh dưỡng gia súc với Viện XINAO - Liên Xô (cũ), về chăn nuôi thỏ với Viện Chăn nuôi tiểu gia súc (KATKI) - Hungary, về trâu sữa với Viện nghiên cứu sữa (KARNAL) - ấn Độ, về giống lợn với Viện chăn nuôi quốc tế (INRA) – Pháp...

Đường lối đổi mới của Đảng và Chính phủ đã thúc đẩy công tác hợp tác quốc tế lên một bước mới. Hai Dự án do UNDP tài trợ về nghiên cứu và phát triển chăn nuôi vịt và bò thịt từ những năm 1987-1992 có ý nghĩa rất đáng kể trong việc tăng cường năng lực của cán bộ khoa học và trang bị kỹ thuật cho Viện. Tiếp đến các Dự án khác của FAO như: “Bảo tồn và sử dụng quỹ gen vật nuôi ở châu Á và Thái Bình Dương” (1993-1997); “Sử dụng tốt hơn nguồn phụ phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi” (1991-2000). Đặc biệt, lần đầu tiên một cơ sở của Viện là Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ đã được FAO tặng Giải thưởng EDOUR  SAOUMA năm 2001 do thực hiện có hiệu quả về kinh tế – xã hội dự án TCP /VIE/6613 về phát triển chăn nuôi dê sữa ở nông hộ và chế biến pho mát từ sữa dê. Ngoài ra, còn có hàng chục dự án song phương với các nước như: SAREC/SIDA với Thuỵ Điển về hệ thống chăn nuôi bền vững; AUSAID - CARD với Australia về quản lý giống bò thịt và đào tạo cán bộ; LINK với Anh về dinh dưỡng gia súc; NUFU – Na uy về thức ăn phụ phẩm; FSP với Australia về đồng cỏ và cây thức ăn cho nông hộ; CIRARD - Pháp về đa dạng sinh học và hệ thống chăn nuôi; JIACA - Nhật Bản về thụ tinh nhân tạo bò; Upland với Đức về cải tạo đất dốc; với Bỉ về thức ăn cho bò; với Cơ quan Năng lượng hạt nhân quốc tế (IAEA) về dinh dưỡng gia súc… 

Trong các Chương trình hợp tác quốc tế, thành  quả của việc thực hiện các dự án trên, nổi bật nhất  phải  kể đến kết quả đào tạo đội ngũ cán bộ về chuyên môn, ngoại ngữ lẫn kinh nghiệm hợp tác khoa học. Từ năm 1990, mỗi năm  có khoảng 100 cán bộ khoa học, quản lý và kỹ thuật viên được cử đi nước ngoài đào tạo, tham dự hội nghị khoa học. 

Bằng những nỗ lực phấn đấu của mình, lại được Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, Ngành hữu quan giúp đỡ, Viện Chăn nuôi đã liên tục phấn đấu, vượt lên nhiều khó khăn, gian khổ và đã thu được nhiều thành công trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo đội ngũ cán bộ, đáp ứng được những đòi hỏi của sản xuất. Ghi nhận những thành tích xuất sắc của Viện Chăn nuôi, đóng góp cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nhà nước cộng hoà XHCN Việt nam đã tặng thưởng cho Viện: Huân chương Lao động hạng 3 (1981), Huân chương Lao động hạng 2 (1985), Huân chương Lao động hạng nhất (1990), Huân chương Độc lập hạng 3 (1995), Huân chương Độc lập hạng nhì (2002). Ngoài ra, 8 trong số 11 đơn vị thuộc Viện và 9 cá nhân cũng đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng 3, hạng 2.  Trong đội ngũ cán bộ, công nhân của Viện, đã nổi lên nhiều tấm gương tiêu biểu trong lao động và quản lý, đặc biệt là tấm gương Anh Hùng Lao động Hồ Giáo phong lần thứ 2 tại Viện Chăn nuôi (1985), Chiến sĩ thi đua toàn quốc PGS. TS. Nguyễn Đăng Vang (2000). Điều vinh dự nữa là: Từ Viện Chăn nuôi đã có 2 Đại biểu quốc hội là Anh Hùng Hồ Giáo (khoá 5) và PGS. TS. Nguyễn Đăng Vang (khoá  XI). 

IV. Phương hướng hoạt động của Viện Chăn nuôi 

Trước những yêu cầu cấp bách của sản xuất, sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam không chỉ sẽ phải cạnh tranh ở nước ngoài, mà còn phải chuẩn bị tư thế khi AFTA mở cửa vào năm 2003 và 2006, khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Trong thời gian tới, Viện Chăn Nuôi tập chung vào một số hướng sau:

1. Áp dụng công nghệ sinh học trình độ cao của thế giới vào Việt Nam nhằm tăng năng suất sản phẩm chăn nuôi, hạ giá thành, sản phẩm, tạo thế cạnh tranh. Nhờ hướng đi này có thể tăng năng suất sản lượng sữa bò trước đây phải đi chặng đường 17 năm, nay chỉ còn 5 năm. Tăng số lượng bò từ 30.000 con trong 30 năm lên 170.000 con trong 8 năm. Trong đó ngoài việc áp dụng công nghệ sử dụng tinh đông lạnh chất lượng giống di truyền cao còn áp dụng kỹ thuật cấy truyền phôi, cắt phôi để nhân nhanh đàn bò cao sản. Tăng hệ thống phát triển giống lợn nạc trước đây từ 32% lên 40-52% mất trên 40 năm, nay chỉ cần 7-10 năm đạt chất lượng tương đương quốc tế.

2. Đầu tư cho công tác nghiên cứu cơ bản về công nghệ gen, tế bào để nâng cao chất lượng sản phẩm bảo trì giống nội địa và tạo sản phẩm đặc thù Việt Nam.
3. Đầu tư cho công tác nghiên cứu dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi bằng công nghệ lên men, vi sinh vật, cân bằng axít amin, vitamin, khoáng nhằm giảm chi phí thức ăn chăn nuôi để tạo ra 1kg sản phẩm chăn nuôi.
4. Áp dụng công nghệ thông tin để quản lý giống bò, giống lợn quy mô toàn quốc. Giải pháp này có thể rút ngắn quá trình từ 40-100 năm như các nước tiên tiến đã từng làm xuống còn 5-8 năm. Đây là lĩnh vực rất có lợi thế ở Việt Nam.
5. Nghiên cứu chế biến sản phẩm chăn nuôi vệ sinh an toàn thực phẩm trên cơ sở phát triển nền nông nghiệp hữu cơ.
6. Tham gia nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, hệ thống chăn nuôi và thị trường sản phẩm chăn nuôi. Từ đó rút ra cơ sở khoa học để đề ra chính sách kinh tế, thị trường liên quan đến lĩnh vực chăn nuôi.  
7. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học và huấn luyện kỹ thuật chăn nuôi cho cán bộ nghiên cứu kỹ thuật và khuyến nông.
8. Tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện nhân lực phát triển chăn nuôi.


V. Kết luận

Năm mươi năm, Viện Chăn nuôi đã trải qua những bước thăng trầm của nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Song, dù đổi tên và ở bất kỳ giai đoạn nào, Viện cũng luôn thể hiện là một Cơ quan nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực chuyên ngành, đào tạo cán bộ và phục vụ phát triển chăn nuôi của đất nước.

Những thành tựu mà Viện Chăn nuôi đạt được trong 50 năm qua, là kết quả của tập thể cán bộ, công nhân viên chức trong toàn khối Viện, là sức mạnh tổng hợp với tính sáng tạo, năng động và tinh thần đoàn kết của tập thể lãnh đạo Viện và các đơn vị trực thuộc. Những thành công của Viện là minh chứng của đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, luôn coi khoa học và công nghệ là then chốt trong công cuộc phát triển đất nước.

Tự hào với lịch sử vẻ vang của Viện, mỗi cán bộ, công chức của Viện hãy đặt niềm tin vào tương lai, sẵn sàng đương đầu với mọi thách thức mới để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn của nước nhà ./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét